“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. 

Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả được tôn vinh nhất trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ 19. Đôi mắt mù lòa cũng không ngăn cản được ông học hỏi và cống hiến, cho ra đời nhiều tác phẩm xuất sắc được sử dụng để giảng dạy trong chương trình học phổ thông, trở thành di sản văn hóa cộng đồng. 

Không chỉ là một nhà văn, nhà thơ mà ông còn là một biểu tượng văn hóa, một tấm gương sáng ngời về ý chí kiên cường, tinh thần ham học, lẽ sống thanh khiết, lòng yêu nước nồng nàn và bất khuất cho nhiều thế hệ trẻ Việt sau này.

Cuộc đời cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), tên tục gọi là cụ đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn của Nam Kỳ trong nửa cuối thế kỷ 19. Đồng thời ông cũng là một trong bảy Danh Nhân Văn Hoá Thế Giới của Việt Nam đã được UNESCO công nhận. Tầm ảnh hưởng của ông không chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn học mà còn lan tỏa sâu rộng vào đời sống văn hóa – xã hội Việt Nam. 

Ông xuất thân trong gia đình nhà Nho gốc Huế, sinh ra và lớn lên tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Vì vậy các tác phẩm của ông luôn mang đậm phong cách Nam bộ với ngôn ngữ đời thường, giản dị và dễ hiểu, phù hợp với phong cách giao tiếp của người dân nơi đây. 

Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu là một học sinh xuất sắc và đỗ kỳ thi hương từ khi còn rất trẻ, sau đó ông chuyển đến Huế để tiếp tục học tại triều đình. Năm 1849, trong khi chuẩn bị cho kỳ thi hội, ông nhận được tin mẹ mất. Trên đường về nhà, ông bị ốm và bị mù do nhiễm trùng mắt không được chữa trị kịp thời. Sự kiện này đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Sau khi bị mù Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851 thì mở trường dạy học, làm thuốc và sáng tác văn thơ ở Bình Vi (Gia Định). Khi Thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, ông chuyển nhà về Ba Tri (Bến Tre) và tiếp tục dạy học, làm thuốc; Tại đây ông cũng sử dụng sức mạnh ngòi bút của mình để thể hiện lòng yêu nước và tinh thần chống giặc ngoại xâm.

Cuộc đời và tác phẩm của ông mang đậm tính yêu nước, thương dân, thể hiện lòng căm thù giặc Pháp xâm lược và tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai của nhân dân Việt. Có một giai thoại về lần Nguyễn Đình Chiểu khẳng khái khước từ mọi lời dụ dỗ của chính quyền thực dân với câu nói:

“Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá gì”.

Không hề nản chí và buông xuôi tất cả sau khi bị mù, Nguyễn Đình Chiểu vẫn sử dụng kiến thức vốn có để dạy học, sáng tác, cống hiến hết mình và trọn vẹn cho dân tộc cho đến giây phút cuối cùng. Tài sản văn chương vô giá của ông là kho báu quý giá của đất nước. Ông được xem là một trong những nhà thơ có tầm ảnh hưởng nhất của Việt Nam thế kỷ 19 và nhiều thế hệ nhà thơ sau này.

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác chính, phản ánh rõ ràng quá trình phát triển tư tưởng và sự thay đổi trong cuộc đời ông. Đến với thơ văn của ông, độc giả vừa được học đạo làm người đúng đắn, cảm nhận sâu sắc về cảnh đời khốn khó của người dân, lòng căm thù giặc cực điểm và tình yêu nước quên bản thân mình.

các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu

Giai đoạn đầu những năm 50 của thế kỷ 19 

Trong giai đoạn này, Nguyễn Đình Chiểu tập trung vào việc khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước yêu dân qua hai tác phẩm tiêu biểu là “Lục Vân Tiên” và “Dương Từ – Hà Mậu”.

“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.”

Trích đoạn mở đầu tác phẩm “Lục Vân Tiên”

Tác phẩm truyện thơ lục bát “Lục Vân Tiên” có thể nói là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của cụ đồ Chiểu. Tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần nhân nghĩa và lòng yêu nước qua hình ảnh nhân vật chính Lục Vân Tiên – người hiện thân cho lòng trung nghĩa, hiếu thảo và dũng cảm kết hợp với nhiều tình tiết cảm động, mang tính giáo dục cao.

Với tác phẩm “Dương Từ – Hà Mậu”, Nguyễn Đình Chiểu đề cập đến các vấn đề đạo đức và luân lý, phản ánh các giá trị Nho giáo của ông. Tác phẩm nêu bật lên những đức tính tốt đẹp của con người và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ gìn đạo đức cao đẹp trong cuộc sống.

“Dẫu tan nát, lòng không tan nát,
Dẫu thê lương, lòng vẫn hăng hái.”

“Dẫu muôn người đều gục ngã,
Ta vẫn đứng, ta vẫn kiên cường.”

Trích “Dương Từ – Hà Mậu”

Giai đoạn sau từ năm 1859 đến năm 1888

Giai đoạn này bắt đầu từ khi quân Pháp chiếm Gia Định năm 1859 và kéo dài cho đến khi Nguyễn Đình Chiểu qua đời vào năm 1888. Trong thời kỳ này, ngòi bút của ông gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân mất nước, lên án mạnh mẽ quân xâm lược và ca ngợi tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân.

tác phẩm Giai đoạn sau từ năm 1859 đến năm 1888

“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.”

Trích đoạn tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”

Các tác phẩm  “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, “Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca”, “Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh”,… thể hiện lập trường mạnh mẽ về đạo làm người đúng đắn, liêm khiết, lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược, ca ngợi tinh thần nghĩa khí của nhân dân.

“Trí huệ sáng soi đời ngu tối,
Thuốc thang cứu chữa bệnh nhân trần.”

“Cây kia lá tốt che muôn loài,
Nước kia nguồn chảy rửa bụi trần.”

Trích “Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca” bàn về đạo làm người

Nguyễn Đình Chiểu đưa tinh thần dân tộc vào văn thơ

Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc Việt Nam, thông qua sự gắn bó mật thiết với văn chương chữ Nôm và tinh thần yêu nước trong sự nghiệp văn chương của mình. Tác phẩm của ông nổi bật với lòng chính trực, lòng yêu nước nồng nàn và sự đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh khốn khó của người dân.

Đem chữ Nôm đến gần với người dân

Việc sử dụng chữ Nôm (còn gọi là chữ Quốc Âm – một hệ chữ viết đặc trưng của dân tộc Việt Nam) trong sáng tác không còn xa lạ với các tác giả thời xưa như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương,… Theo truyền thống này, các tác phẩm của cụ đồ Chiểu đa phần cũng đều được viết bằng chữ Nôm. Việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác không chỉ là phương tiện biểu đạt văn chương mà còn là hành động bảo tồn và phát huy một phần quan trọng của di sản văn hóa dân tộc.

các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu

Chữ Nôm với khả năng phản ánh ngôn ngữ và văn hóa dân tộc, đã giúp các tác phẩm của ông truyền tải những tư tưởng, cảm xúc và câu chuyện gần gũi với đời sống người Việt. Kết hợp việc dạy học và sáng tác, “Lục Vân Tiên” là một minh chứng rõ nét cho tài năng và tâm huyết của ông đối với việc đưa chữ Quốc Âm đến với người dân.

Nguyễn Đình Chiểu sử dụng chữ Nôm không chỉ để sáng tác mà còn để bảo vệ và phát triển một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam, tạo nên những tác phẩm văn học sống mãi với thời gian. 

Văn chương nồng nàn lòng yêu nước và căm phẫn giặc ngoại xâm

Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn đầu tiên đặt nền móng cho dòng thơ yêu nước Việt Nam. Các tác phẩm của ông ở giai đoạn sau sự nghiệp, đặc biệt là các bài văn tế, đã tạo ra một chuẩn mực mới cho văn học Việt Nam, làm nền tảng cho sự phát triển của văn học cách mạng sau này. Tiêu biểu như tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc.

thơ hay của nguyễn đình chiểu

Sự kết hợp giữa tinh thần yêu nước và nghệ thuật văn chương trong tác phẩm của ông đã tạo ra sức mạnh to lớn cho văn học dân tộc thế kỷ 19 tới tận ngày nay và mai sau. Di sản văn chương của ông góp phần cổ vũ, động viên nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống giặc Pháp xâm lược và  trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các thế hệ nhà văn, nhà thơ yêu nước sau này. Để thấy rằng tác phẩm văn học không chỉ là những bài thơ, câu văn mà còn là những lời kêu gọi, những bản hùng ca khích lệ lòng yêu nước và ý chí đấu tranh của nhân dân.

Xem thêm:

Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng cho tinh thần kiên cường, không khuất phục trước khó khăn, dù mất thị lực ở tuổi còn trẻ, ông vẫn kiên trì học tập, sáng tác và cống hiến cho xã hội. Ông nổi bật với những tác phẩm văn chương đầy ý nghĩa mà còn là một tấm gương về lòng yêu nước và tinh thần bất khuất, được xem là một trong những lá cờ đầu của phong trào văn học yêu nước chống Pháp ở Nam Bộ. Hãy tìm đọc các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu nhé!


Nội dung: Tổng hợp và review bởi DIMI BOOK
Hình ảnh: Internet
(*) Bản quyền bài viết thuộc về DIMI BOOK. Vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ “DIMI BOOK” hoặc “dimibook.com” khi chia sẻ hoặc trích dẫn trên các nền tảng khác.

Mua sách tại đây

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *