“Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.” Lời nhận định của Hoài Thanh đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc vai trò của thơ ca trong dòng chảy của lịch sử nhân loại nói chung, cũng như Việt Nam nói riêng.

Thế kỷ 20 với những biến động và chuyển mình dữ dội đã chứng kiến sự thăng hoa rực rỡ của thơ ca Việt Nam. Trong thời khắc giao thoa giữa truyền thống và hiện đại, thơ ca trở thành chiếc cầu nối, đưa người đọc vào những miền cảm xúc vô tận, nơi tình yêu, khát vọng và nỗi đau đan xen nhau một cách kỳ diệu.

Những nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20 nổi bật như Xuân Diệu, Huy Cận, hay Hàn Mặc Tử đã thổi vào những dòng chữ một hơi thở mới, làm sống lại những giấc mơ lãng mạn và những nỗi niềm siêu thực, họ đưa người đọc vào cõi mộng mơ màng và sâu lắng. Bên cạnh đó, Tố Hữu và Chế Lan Viên đã góp phần xây dựng nên một nền thơ đầy sức mạnh, nơi từng câu thơ là tiếng vọng của lòng dân, của những trái tim luôn rực cháy tình yêu tổ quốc và khát vọng độc lập. 

Hãy cùng DIMI BOOK điểm qua 15 cái tên vàng của thơ ca Việt Nam thế kỷ 20 và các tác phẩm tiêu biểu nhé.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến được biết đến với phong cách sáng tác trào phúng, mộc mạc nhưng đầy sâu sắc, phản ánh tinh thần yêu nước và lòng yêu quê hương tha thiết. Thơ của Nguyễn Khuyến thường thể hiện nỗi nhớ da diết về quê hương, về những cảnh vật làng quê bình dị, gần gũi qua những bài thơ chữ Nôm mang đậm chất dân tộc.

Nguyễn Khuyến

Mặc dù cuộc đời ông gắn liền với thời kỳ loạn lạc, nhưng ông vẫn tìm thấy niềm vui trong những điều giản dị của cuộc sống. Qua văn chương, thơ của ông vẫn giữ được sự thanh cao, với tiếng thơ mang đậm hồn quê và tấm lòng trung nghĩa. Ông tìm thấy niềm vui trong những điều giản dị của cuộc sống.

  • Thu điếu 
  • Thu vịnh 
  • Thu ẩm 
  • Khóc dương khuê
  • Bạn đến chơi nhà 
  • Lão tang mà 
  • Vịnh tiến sĩ giấy
  • Nghĩa phế nghịch cửu 
  • Thu dạ châm thanh
  • Anh giả điếc

Tố Hữu

Tố Hữu là người đã thổi hồn vào thơ ca Việt Nam những nhịp đập của lịch sử và lý tưởng. Với phong cách sáng tác đậm chất trữ tình cách mạng, ông đã ghi dấu những vần thơ đầy cảm hứng và niềm tin sâu sắc trong các tập như “Từ ấy” và “Việt Bắc”. Những tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu không chỉ phản ánh sự vươn lên mạnh mẽ của dân tộc trong giai đoạn đấu tranh, mà còn là những bản anh hùng ca lấp lánh tinh thần yêu nước và lòng tin vào tương lai. 

Tố Hữu
  • Từ ấy – 1946
  • VIệt Bắc – 1954
  • Lượm -1954
  • Bầm ơi – 1954
  • Tiếng chổi tre – 1961
  • Bác ơi! – 1972
  • Bài ca mùa xuân 1961 – 1961
  • Hai đứa trẻ – 1946
  • Hồn chiến sĩ – 1946
  • Nhớ Chế Lan Viên – 1992

Xuân Diệu

Xuân Diệu nổi bật với phong cách sáng tác lãng mạn, tinh tế và đầy cảm xúc. Ông là một trong những người nổi bật nhất trong phong trào Thơ Mới với những tác phẩm như “Vội vàng”, “Yêu”… thể hiện sự kết hợp hoàn hảo giữa niềm yêu đời, sự trân trọng thời gian và khát khao sống trọn vẹn từng khoảnh khắc. 

Được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, bên cạnh thủ pháp thi ca độc đáo, những người yêu thơ còn nhớ đến tên Xuân Diệu qua những dòng thơ tình lãng mạn.

Xuân Diệu
  • Xa cách – 1938
  • Tương tư chiều – 1938
  • Yêu – 1945
  • Phải nói – 1938
  • Đứa con của tình yêu – 1939
  • Đứng chờ em – 1976
  • Vội vàng – 1938
  • Xuân không màu – 1939
  • Biển – 1962
  • Trăng – 1938

Chế Lan Viên

Chế Lan Viên là một trong những Huyền thoại thơ ca Việt Nam thế kỷ 20, nổi tiếng với phong cách sáng tác giàu triết lý và tượng trưng. Khởi đầu sự nghiệp bằng tập thơ Điêu tàn (1937) với những hình ảnh siêu thực, u uất, ông đã nhanh chóng ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc. Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông chuyển mình hướng về đất nước và nhân dân, phản ánh tinh thần đấu tranh và tình yêu quê hương. 

Chế Lan Viên
  • Người đi tìm hình của nước – 1960
  • Tiếng hát con tàu – 1960
  • Xuân – 1942
  • Con cò – 1967
  • Cái vui bây giờ – 1960
  • Những sợi tơ lòng – 1937
  • Ngoảnh lại mùa đông – 1960
  • Ánh sáng – 1937
  • Khúc ca chiều – 1938
  • Nguồn thơ của tôi – 1936

Nguyễn Bính

Nguyễn Bính được mệnh danh là nhà thơ của làng quê Việt Nam. Ông là người đã thổi vào thơ ca Việt Nam một giọng điệu mộc mạc, chân chất mà sâu lắng đến lạ lùng. Trong những vần thơ của ông, ta bắt gặp vẻ đẹp bình dị của cánh đồng, làn gió quê và cả nỗi buồn man mác của những giá trị truyền thống dần nhạt phai.

Nguyễn Bính
  • Tương tư – 1929
  • Chân quê – 1936
  • Mưa xuân – 1936
  • Những bóng người trên sân ga – 1937
  • Bài thơ quê hương – 1966
  • Hành phương Nam – 1943
  • Viếng hồn trinh nữ – 1940
  • Cô hái mơ – 1937
  • Đêm cuối cùng – 1936
  • Cô lái đò – 1940

Cù Huy Cận

Huy Cận, thi nhân của những nỗi buồn vũ trụ đã khắc sâu vào lòng người bằng những vần thơ trữ tình, u hoài và giàu suy tưởng. Với tập thơ “Lửa thiêng (1940), ông mang đến hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng lặng lẽ như chính nỗi cô đơn ẩn sâu trong tâm hồn người thi sĩ giữa dòng chảy của vũ trụ. Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông bừng sáng, tràn đầy niềm tin yêu và lạc quan về tương lai đất nước. 

nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20 Cù Huy Cận
  • Đoàn thuyền đánh cá – 1958
  • Tràng giang – 1940
  • Ngậm ngùi – 1940
  • Các vị la hán chùa Tây Phương – 1960
  • Con chim chiền chiện – 1967
  • Áo trắng – 1940
  • Sớm mai gà gáy – 1962
  • Ta viết bài thơ gọi biển về – 1984
  • Buồn đêm mưa – 1940
  • Mùa hạ chín – 1940

Xuân Quỳnh

Xuân Quỳnh là nữ thi sĩ của tình yêu và khát vọng, bà đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả bằng những vần thơ vừa dịu dàng vừa mãnh liệt như nhịp đập của trái tim người phụ nữ luôn sống hết mình vì tình yêu. Cuộc đời và sự nghiệp của Xuân Quỳnh là một hành trình tận hiến cho nghệ thuật, bà đã để lại di sản thơ ca giàu cảm xúc và mãi ngân vang trong lòng bao thế hệ.

Xuân Quỳnh
  • Thuyền và biển – 1963
  • Sóng – 1968
  • Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại – 1985
  • Tiếng gà trưa – 1968
  • Sân ga chiều em đi – 1978
  • Trời xanh của mỗi người – 1981
  • Một năm – 1981
  • Bình trị thiên – 1978
  • Tại sao gà con sinh ra? – 1982
  • Con yêu mẹ – 1978

Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ là nhà thơ và nhà viết kịch ưu tú của văn học Việt Nam. Với phong cách sáng tác tinh tế, ông kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, khai thác sâu sắc những mâu thuẫn xã hội và tâm lý phức tạp của con người. Cuộc đời Lưu Quang Vũ tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy nhiệt huyết và đam mê nghệ thuật, di sản trí tuệ của ông là minh chứng cho sự tận tụy không ngừng nghỉ với văn học và sân khấu. Dấu ấn thơ của Lưu Quang Vũ trong nền văn học Việt Nam luôn vô giá cho thế hệ sau.

Lưu Quang Vũ
  • Phố ta – 1970
  • Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa – 1993
  • Em – tình yêu của những năm đau xót và hy vọng – 1973
  • Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi – 1989
  • Bầy ong trong đêm sâu – 1993
  • Và anh tồn tại – 1989
  • Anh đã mất chi anh đã được gì – 1993
  • Tiếng Việt – 1989
  • Thôn Chu Hưng – 1968

Quang Dũng

Nhà thơ Quang Dũng đã để lại dấu ấn khó phai trong văn học Việt Nam thế kỷ 20 với những vần thơ đậm chất lãng mạn và hào hùng. Phong cách thơ Quang Dũng mang đậm chất nhạc, họa, ngôn từ bay bổng, giàu hình ảnh và cảm xúc. Cuộc đời ông gắn liền với tình yêu đất nước góp phần tạo nên những trang thơ lấp lánh, đậm chất anh hùng ca của văn học Việt Nam.

Quang Dũng
  • Tây Tiến – 1986
  • Đôi mắt người Sơn Tây – 1986
  • Đôi bờ – 1948
  • Nhớ một bóng núi – 1986 
  • Linh râu ria – 1948
  • Những cô hàng xén – 1986
  • Đường Trăng – 1986
  • Cố Quận – 1940
  • Hồ Nam – 1960
  • Dòng đời – 1947

Hàn Mặc Tử

Hàn Mặc Tử – nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh, là người mở ra những miền đất mới lạ cho thi ca Việt Nam với phong cách sáng tác độc đáo và ám ảnh. Với ngôn ngữ giàu cảm xúc, Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ ca những hình ảnh táo bạo, sâu lắng về tôn giáo, tình yêu, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. 

Hàn Mặc Tử
  • Đây thôn Vĩ Dạ – 1937
  • Mùa xuân chín – 1937
  • Những giọt lệ – 1937
  • Đà Lạt trăng mờ – 1937
  • Trăng vàng trăng ngọc- 1937
  • Chơi giữa mùa trăng – 1941
  • Mùa thu chưa tới – 1941
  • Uống trăng – 1936
  • Hồn thơ – 1936
  • Nhớ nhung – 1936

Tản Đà

Tản Đà là một trong những gương mặt tiên phong của văn học hiện đại Việt Nam, ông là cầu nối giữa thơ ca truyền thống và phong trào Thơ Mới (1932-1945). Với phong cách sáng tác phóng khoáng, vừa lãng mạn vừa đậm chất trữ tình, ông đã khắc họa hình ảnh con người tự do, đầy khát vọng trong một xã hội đang chuyển mình.

Tản Đà
  • Thề non nước – 1920
  • Muốn làm thằng Cuội – 1916
  • Xem cô chài đánh cá – 1916
  • Đời đáng chán – 1922
  • Lại say – 1932
  • Thăm mả cũ bên đường – 1916
  • Cây Đào – 1919
  • Gặp xuân – 1938
  • Gần tết tiễn năm cũ – 1936
  • Gió thu – 1916

Thế Lữ

Thế Lữ được mệnh danh là bậc thầy của thơ ca lãng mạn Việt Nam. Ông ghi dấu ấn mạnh mẽ trong văn học Việt Nam thế kỷ 20 với những vần thơ bay bổng, giàu cảm xúc và tràn đầy mộng tưởng. Ông được xem là người mở đường cho phong trào Thơ Mới, với những tác phẩm như “Nhớ rừng” làm sống dậy khát vọng tự do và vẻ đẹp hoang dã, kiêu hùng của tự nhiên như chính khát khao tự do trong chính cõi lòng con người. 

nhà thơ việt nam Thế Lữ
  • Nhớ rừng – 1936
  • Tiếng sáo Thiên Thai – 1941
  • Cây đàn muôn điệu – 1941
  • Giây phút chạnh lòng – 1937
  • Ma túy – 1940
  • Chiều bâng khuâng – 1941
  • Thức giấc – 1935
  • Yêu – 1941
  • Tiếng gọi bên sông – 1935
  • Hồ Xuân và Thiếu Nữ – 1941

Mộng Tuyết

Mộng Tuyết được mệnh danh là một nàng thơ đất Phương Thành – đã đi thẳng vào con đường của thơ ca buổi cách tân mà không chút vướng mắc gì. Hồn thơ thiếu nữ trong trẻo với nhè nhẹ đánh thức cảm xúc với đèn sách, với bằng hữu, với thiên nhiên, với tình yêu… cho tới buổi chín tới của nhận thức, suy tư về đất nước, thời cuộc, đồng bào, thơ Mộng Tuyết đã đi qua hết những chặng đường trưởng thành của cảm hứng và nghệ thuật.

nhà thơ Mộng Tuyết
  • Dương liễu tân xanh – 1939
  • Vì anh Thọ Xuân – 1939
  • Ai đắp điếm – 1945
  • Giá gạo Tràng An – 1945
  • Hấp hối đợi chờ – 1945
  • Đúc chuông – 1945
  • Bóng trăng tương tư – 1959
  • Ngọn bấc tương tự – 1959
  • Vuông lụa tương tự – 1959
  • Hòn một – 1959

Hoàng Cầm

Hoàng Cầm là thi sĩ của nỗi nhớ và hồn quê Bắc Bộ, ông đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học Việt Nam 20 với những vần thơ đậm chất trữ tình và giàu hình ảnh dân gian. Thơ Hoàng Cầm mang đậm chất huyền ảo, giàu liên tưởng và luôn ẩn chứa những lớp nghĩa sâu sắc.

Hoàng Cầm
  • Bên kia sông Đuống – 1948
  • Lá diêu bông – 1959
  • Bình yên – 1950
  • Anh đi và em đi – 1944
  • Nếu anh còn trẻ – 1941
  • Ước nguyện – 1994
  • Quả vườn ổi – 1960
  • Cây tam cúc – 1960
  • Quà mẹ – 1960
  • Nhớ – 1960

Bằng Việt

Bằng Việt (tên thật là Nguyễn Việt Bằng) là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông mang đậm dấu ấn của thời đại, đồng thời thể hiện những nét độc đáo trong phong cách sáng tác.

Nhà thơ Bằng Việt nhận “Giải thành tựu trọn đời” của Hội Nhà văn Hà Nội (2005) cho Thơ trữ tình thế giới thế kỷ 20, với nhận xét: “Nhiều bài đã trở nên quen thuộc với các thế hệ người yêu thơ trong bốn thập kỷ qua, mang dấu ấn tâm hồn và nét sang trọng, tinh tế của người chuyển ngữ. Giải trao cho nhà thơ Bằng Việt để ghi nhận thành tựu trọn đời của một dịch giả tài hoa có nhiều đóng góp trong hoạt động giới thiệu văn chương nước ngoài”. (Trích Bằng Việt)

Bằng Việt
  • Hương cây – Bếp lửa
  • Đường Trường Sơn, cảnh và người (ký sự thơ 1972 – 1973)
  • Những gương mặt – Những khoảng trời (Some faces and pieces of sky; 1973), 24 bài thơ
  • Đất sau mưa (1977), 20 bài thơ
  • Khoảng cách giữa lời (1984), 16 bài thơ
  • Cát sáng (1985), in chung với Vũ Quần Phương
  • Bếp lửa – Khoảng trời (Tập thơ) (1986)
  • Phía nửa mặt trăng chìm (1995)
  • Ném câu thơ vào gió (Tập thơ; Flying a verse with the wind; 2001), 30 bài thơ
  • Thơ trữ tình (2002)
  • Thơ Bằng Việt (Tập thơ), (2003)
  • Nheo mắt nhìn vào gió (Tập thơ, 2008), 29 bài thơ
  • Hoa tường vi (Tập thơ), (7-2018)
  • Mẹ (1972)

Xem thêm:

Thơ ca thế kỷ 20 chính là sự hòa quyện của nhiều tầng lớp cảm xúc, từ tiếng lòng của tình yêu đôi lứa, đến những trăn trở sâu sắc về số phận con người và tình yêu mãnh liệt với đất nước. Mỗi tác giả, mỗi dòng thơ là một mảnh ghép quý báu, một màu sắc độc đáo, cùng tạo nên một bức tranh đậm chất riêng của tâm hồn Việt, nơi mà quá khứ và hiện tại, cá nhân và cộng đồng hòa quyện trong một bản hòa ca vang vọng mãi trong lòng dân tộc. Ngoài ra còn nhiều nhà thơ Việt Nam nổi bật khác sẽ được chúng tôi giới thiệu tới Quý độc giả.


Nội dung: Tổng hợp và review bởi DIMI BOOK
(*) Bản quyền bài viết thuộc về DIMI BOOK. Vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ “dimibook.com” khi chia sẻ hoặc trích dẫn trên các nền tảng khác.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

ZaloGọi điệnFacebook